SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA ĐIỀU DƯỠNG GÂY MÊ

(Đây là bài viết tổng hợp về lịch sử phát triển song hành của Điều dưỡng gây mê và Bác sĩ gây mê, dựa trên các nguồn về lịch sử gây mê Hoa kỳ để tham khảo).

Điều dưỡng chuyên nghiệp được phát triển vào những năm 1850 và phần lớn được ghi nhận cho những nỗ lực của Florence Nightingale trong Chiến tranh Krym. Các điều dưỡng bắt đầu sử dụng thuốc gây mê trong khoảng thời gian này. Điều dưỡng và điều dưỡng gây mê đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc chăm sóc những người lính bị thương trong Nội chiến Hoa Kỳ. 150 năm trước, việc gây mê tốt nhất chỉ là một kỹ năng thô sơ không có sự giám sát nào ngoại trừ một ngón tay bắt mạch và một nỗ lực quan sát các kiểu thở và màu da của bệnh nhân.

Alice Magaw là điều dưỡng gây mê nổi tiếng nhất của Thế kỷ 19. Sinh ra ở Coshocton, Ohio vào năm 1860, cô theo học trường điều dưỡng ở Chicago và cuối cùng trở thành y sĩ gây mê cho cả hai anh em nhà Mayo ở Rochester, Minnesota. Năm 1899, cô trở thành điều dưỡng gây mê đầu tiên xuất bản một bài báo khoa học cho tờ Northwestern Lancet. Cô ấy nổi tiếng là bậc thầy về ether hở và Bv Charles Mayo mệnh danh cô ấy là “Mẹ gây mê”. Cô đã thực hiện hơn 14.000 cuộc gây mê mà không có trường hợp tử vong nào được ghi nhận. Đây là một thành tích đáng chú ý do thời ấy thiếu sự theo dõi và các kỹ thuật, thuốc men và công nghệ tiên tiến để giúp giải cứu bệnh nhân khỏi bi kịch sắp xảy ra. Bởi vì cô ấy không phải là Bác sĩ, nên các bác sĩ gây mê vẫn không biết về những đóng góp của Alice Magaw.


 
Đào tạo Bác sĩ gây mê chính thức, hàn lâm được phát triển sau đào tạo gây mê cho điều dưỡng. Bác sĩ Ralph Waters là người thành lập khoa gây mê chính thức đầu tiên ở Madison, Wisconsin vào năm 1927. Ông đã thành lập chương trình gây mê nội trú đầu tiên ở Hoa Kỳ, và các học viên của ông lan rộng khắp Hoa Kỳ và thường được gọi là The Water Babies (những đứa trẻ của Water). Ralph Waters muốn đưa thuốc gây mê trở lại với lĩnh vực hành nghề của bác sĩ, chứ không phải như mục đích chủ yếu của nó cho đến thời điểm đó – hành nghề của điều dưỡng.

Trước khi chương trình của Waters được tạo ra, Agnes McGee, điều dưỡng gây mê, đã thành lập chương trình giáo dục đầu tiên về thuốc gây mê tại Bệnh viện St. Vincent ở Portland, Oregon vào năm 1909. Đó là một khóa học 6 tháng về giải phẫu, sinh lý học và dược lý liên quan đến thuốc gây mê. Từ năm 1912 đến năm 1920, 19 trường gây mê do điều dưỡng hướng dẫn đã được mở. Rõ ràng là các điều dưỡng đã đi đầu trong việc hướng tới giáo dục chính thức về gây mê từ rất lâu trước các bác sĩ gây mê.

Agnes McGee nhận giải thưởng cho những đóng góp của cô cho điều dưỡng gây mê năm 1953.

Trong khi đó, bên kia Đại Tây Dương, gây mê đã phát triển trong môi trường học thuật ở Scotland. Ngài William Macewen, một bác sĩ phẫu thuật làm việc tại Glasgow, đã đi tiên phong trong các nỗ lực về kỹ thuật vô trùng, phẫu thuật thần kinh và phẫu thuật chỉnh hình. Dr Macewen đã nhận ra sự cần thiết phải đào tạo chính thức các bác sĩ về việc sử dụng thuốc gây mê và một trong những chứng chỉ được biết đến đầu tiên được trao cho các bác sĩ hoàn thành khóa đào tạo về gây mê đã được trao cho một sinh viên phẫu thuật tên là Broughton Head vào năm 1903.

Vào năm 1930, tại hội nghị hai năm một lần của Hiệp hội Điều dưỡng Hoa Kỳ, Agatha Hodgins đã trình bày một bài báo đề xuất tổ chức các điều dưỡng gây mê thành một “cơ quan thống nhất và hành động”. Năm sau, vào năm 1931, Hiệp hội Điều dưỡng Gây mê Quốc gia (the National Association of Nurse Anesthetists-NANA) được thành lập vào ngày 17 tháng 6, tại Cleveland, Ohio (Sau này trở thành Hiệp hội Điều dưỡng Gây mê Hoa Kỳ the American Association of Nurse Anesthetists hoặc AANA.).

Các chương trình CRNA nhận ra sự phức tạp ngày càng tăng đối với việc cung cấp dịch vụ chăm sóc gây mê và việc đào tạo điều dưỡng gây mê là ưu tiên hàng đầu kể từ khi thành lập AANA. 
Mặc dù mãi đến năm 1952 mới được thực hiện, nhưng việc công nhận các chương trình giáo dục về gây mê cho điều dưỡng đã được thảo luận ngay từ năm 1934. Kỳ thi cấp chứng chỉ của AANA được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1945, một chương trình giáo dục thường xuyên tự nguyện đã được phê duyệt vào năm 1969 và giáo dục thường xuyên bắt buộc có hiệu lực vào năm 1978.
Năm 1986 , bằng cử nhân điều dưỡng hoặc bằng cấp liên quan được yêu cầu để được nhận vào các chương trình điều dưỡng gây mê và đến năm 1998, tất cả các chương trình được yêu cầu phải ở cấp độ sau đại học, ít nhất phải có bằng thạc sĩ. 
Năm 2007, AANA đã thông qua một tuyên bố quan điểm hỗ trợ đào tạo tiến sĩ để đi vào thực tế vào năm 2025. AANA được hỗ trợ và lãnh đạo bởi những người tài năng, điều dưỡng được giáo dục tốt, có tư duy cầu tiến.

Còn Hiệp hội Bác sĩ Gây mê Hoa Kỳ (American Society of Anesthesiologists-ASA) hiện tại bắt đầu vào năm 1909. Ban đầu được biết đến với tên gọi Hiệp hội Bác sĩ Gây mê New York, tổ chức này đã trở thành Hiệp hội Bác sĩ Gây mê Hoa Kỳ vào năm 1936. Trong vòng 5 năm, cả điều dưỡng và bác sĩ đều nhận ra nhu cầu tạo ra một hiệp hội hình thức. Đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Điều không mấy thú vị bây giờ là xung đột liên tục giữa CRNA (certified registered nurse anesthetists-điều dưỡng gây mê đã đăng ký được chứng nhận) và Bác sĩ gây mê liên quan đến phạm vi thực hành, tính độc lập, giáo dục và tổ chức. Các điều dưỡng gây mê, trước khi sử dụng từ “được chứng nhận”, đã thực hiện hàng nghìn lần gây mê mà không có biến chứng. Họ tiếp tục làm như vậy trong môi trường thực hành hỗn hợp, môi trường độc lập và cho quân đội Hoa Kỳ. CRNA đang cung cấp dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp, xuất sắc cho bệnh nhân hàng ngày trên khắp Hoa Kỳ. Vấn đề này luôn nhức nhối mỗi khi CRNA cố gắng thay đổi luật của tiểu bang liên quan đến phạm vi hành nghề và/hoặc tính độc lập.

Tại Arizona, đã có một nỗ lực để cho phép các CRNA hoạt động độc lập, còn lập luận của các Bác sĩ gây mê rất đơn giản: họ không phải là bác sĩ. Đó là một ‘cuộc chiến trên sân cỏ’ và các Bác sĩ gây mê cảm thấy bị đe dọa. 

Thật không may, truyền thống không công nhận điều dưỡng gây mê bình đẳng đã dẫn đầu cuộc tranh luận trong một trăm năm. Năm 1916, Trường Gây mê Bệnh viện Lakeside đóng cửa sau mâu thuẫn với Hội đồng Y tế Bang Ohio về tính hợp pháp của các điều dưỡng thực hiện gây mê. Nó lại được mở cửa trở lại vào năm 1917… 

Chuyển tiếp một trăm năm tới những gì đã xảy ra gần đây ở Arizona. Đây là luật hiện hành: Điều dưỡng gây mê đã đăng ký được chứng nhận (CRNA) có thể sử dụng thuốc gây mê dưới sự hướng dẫn và có mặt của bác sĩ hoặc bác sĩ phẫu thuật liên quan đến việc chăm sóc bệnh nhân trước phẫu thuật, trong phẫu thuật hoặc hậu phẫu hoặc là một phần của quy trình do bác sĩ hoặc bác sĩ phẫu thuật thực hiện.

Điều này có nghĩa là ‘bác sĩ’ có thể là bác sĩ da liễu, nội tiết v.v. Luật hiện hành này không đề cập đến loại bác sĩ nào. Hầu hết thời gian, ‘bác sĩ’ tình cờ là một bác sĩ phẫu thuật.

Hãy xem xét tình huống này qua lăng kính mà nó phải được xem xét. Bằng cách nào đó, một bác sĩ không được đào tạo chính quy về gây mê giám sát một điều dưỡng đã được đào tạo về gây mê lại có thể chấp nhận được? Đây không phải là một người mù đang dẫn một người có thị lực 20/20 xuyên qua một khu rừng sao? 
(Tôi đã hành nghề gây mê được nhiều năm, và tôi chưa từng thấy một bác sĩ phẫu thuật nào quản lý đường thở, quản lý propofol, thuốc giãn cơ hoặc bật công tắc máy thở. Và bằng cách nào đó, những Bác sĩ này có khả năng nói cho CRNA biết phải làm gì trong trường hợp khẩn cấp gây mê?).

Trận chiến giữa Bác sĩ gây mê và CRNA rất đơn giản: CRNA không tham gia khóa đào tạo y khoa sau đại học chuyên sâu bốn năm hoặc tham gia các kỳ thi viết và vấn đáp của Hội đồng như BSGM (Ở Mỹ, mọi BS chuyên khoa đều phải học 4 năm để tốt nghiệp MD chung, sau đó tuỳ chuyên ngành phải học tiếp 4 năm nữa mới được cấp phép hành nghề). Đơn giản họ cho là không công bằng khi CRNA có thể được coi là ngang hàng về làm việc với Bác sĩ. Và thế là cuộc chiến vẫn tiếp tục.

Quan điểm chung về việc cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt cho bệnh nhân là sự tập trung không ngừng vào mô hình nhóm. Không ai hành nghề y hoặc điều dưỡng trong môi trường chân không trừ khi họ thực sự là người hành nghề một mình trong môi trường văn phòng không có điều dưỡng. Tất nhiên, điều này không diễn ra trong phòng phẫu thuật của chúng ta hoặc các khu vực bên ngoài nơi chúng ta thực hiện gây mê, chẳng hạn như phòng thông tim, phòng chụp cộng hưởng từ hoặc các cơ sở cấp cứu.

Chúng ta nên cùng họp để thảo luận các vấn đề nổi bật liên quan đến chăm sóc gây mê, mô hình nhóm chăm sóc, nỗ lực tạo ra các nhà chăm sóc phẫu thuật, phòng khám tiền phẫu, mô hình nhóm chăm sóc hậu phẫu, mô hình quản lý cơn đau cấp tính tại nhà, v.v. Chúng ta có thể đạt được nhiều hơn nữa nếu, thay vì chiến đấu với nhau trong các cơ quan lập pháp, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều thuộc cùng một nhóm làm việc hướng tới một mục đích chung. Với tư cách là bác sĩ, chúng ta nên đặt cái tôi của mình sang một bên và hoàn toàn đón nhận tương lai cũng như ghi nhận những đóng góp của các đồng nghiệp điều dưỡng của chúng ta. Chúng ta có thể học được rất nhiều từ họ.

Ở Mỹ. Hội đồng Gây mê Hoa Kỳ cũng đã thay đổi các yêu cầu về chứng nhận, chẳng hạn phải tham gia chương trình Duy trì Chứng nhận Gây mê (Maintenance of Certification of Anesthesia), còn được gọi là MOCA. Các tổ chức mẹ như ASA, AANA và ABA đều nhận thấy rằng tất cả chúng ta cần phải thích ứng và duy trì giáo dục và đào tạo cập nhật. Chúng ta cần thực hiện bước tiếp theo sau nhiều thập kỷ và nhiều thập kỷ xung đột không cần thiết để xích lại gần nhau vì chúng ta đang ở cùng nhau.

Thật may, ở VN, điều dưỡng gây mê & BS gây mê làm việc theo Qui chế bệnh viện, được cập nhật từ Thông tư 13/2012/TT-BYT hướng dẫn công tác gây mê hồi sức – từ sự tham mưu, tư vấn của Hội GMHS VN (Điều 21) , nên vấn đề xung đột cơ bản cũng đã được giải quyết.

Đăng bởi hocmaster

Kho lưu trữ các bài giảng y khoa miễn phí của bác sĩ Học, chuyên gia gây mê hồi sức tại Việt Nam, giảng viên Đại học Duy Tân & Đại học Y Dược Đà Nẵng.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: